Căn nguyên
Bệnh giun tim trên chó, mèo có nguyên nhân do giun tròn Dirofilaria immitis, chúng thuộc họ giun tròn, bộ giun chỉ. Giun tim trên chó được mô tả lần đầu tiên ở Italia vào năm 1626 và ở Mỹ vào năm 1847 và bệnh giun tim ở mèo lần đầu tiên được phát hiện ở Braxin trong 1921 và ở Mỹ 1922. Loài chó là ký chủ thực sự của giun tim nhưng loài ký sinh trùng này cũng đã được tìm thấy ở trên 30 loài động vật khác, bao gồm mèo nhà, mèo hoang, linh miêu, hải cẩu, sư tử biển và con người. Đã có một ca nhiễm giun tim trên chim được ghi nhận.
Dịch tễ học
Vùng phân bố
Giun tim hiện hữu ở vùng Bắc Mỹ, vùng Trung Mỹ và Nam Mỹ, quần đảo Caribe; vùng duyên hải châu Phi, Nam Âu, và châu Á; Nhật Bản; Indonesia và Úc. Ở Mỹ, tỷ lệ ca bệnh giun tim hàng năm trên chó không ngừng gia tăng mặc dù đã có nhiều liệu pháp điều trị bằng dược phẩm. Tỷ lệ bệnh gia tăng đáng chú ý ở miền tây nước Mỹ trong suốt 30 năm qua. Có hai yếu tố gây bệnh chủ yếu: (1) chó nhiễm bệnh giun tim được di chuyển từ vùng bệnh tới vùng phía tây bởi con người, và vì thế thiết lập một nguồn lây bệnh và (2) môi trường sống của muỗi đã được tạo ra từ kết quả của việc di cư và phát triển và theo sau đó là vectơ muỗi lây truyền .
Sự truyền lây
Vòng đời tự nhiên và sự lây truyền của giun tim đòi hỏi nguồn lây nhiễm, vectơ muỗi và điều kiện khí hậu thuận lợi. Chó nhà không được bảo vệ và chó hoang cũng như chó hoang dã được xem là nguồn vật chủ.
Hơn 70 loài muỗi được cho là có khả năng lây truyền bệnh giun tim, 22 loài muỗi đã được chứng minh là vectơ quan trọng nhất (Aedes albopictus, Aedes aegypti, Aedes sierrensis, Culex spp). Phòng thí nghiệm cũng đã nghiên cứu ra rằng nhiệt độ tối thiểu cần thiết cho sự phát triển của ấu trùng giun tim ở giai đoạn L3 là 570F.
Vòng đời
Những hiểu biết về vòng đời của giun tim rất quan trọng giúp ta phát triển và phòng ngừa và đưa ra những liệu pháp điều trị thích hợp. Vòng đời của D.immitis kéo dài từ 7 đến 9 tháng (210 đến 270 ngày). Muỗi cái hút máu có ấu trùng giun tim ở chó vào bụng. Ấu trùng ở trong bụng muỗi sau đó trải qua quá trình biến đổi thành ấu trùng giai đoạn 1 (L1). L1 sẽ trải qua 2 lần biến thái mất 2 đến 4 tuần, phụ thuộc vào nhiệt độ trung bình môi trường xung quanh, khi đó chúng trở thành ấu trùng lây nhiễm L3.
Khi muỗi cái chích kí chủ, L3 theo dòng máu định vị ở những giọt huyết tương trong da. Ấu trùng L3 đi xuyên qua vết chích vào mô đưới da, tại đây hầu hết ấu trùng L3 biến thái sang L4 trong vài ngày. Ấu trùng L4 di hành ở mô dưới da và mô cơ hướng về ngực, và sau khoảng 50-70 ngày sau khi nhiễm ấu trùng L4 chúng biến thái lần cuối và phát triển thành giun non.
Những con giun non này sau đó xâm nhập vào mô cơ và thậm chí vào cả hệ tuần hoàn. Theo quan điểm trước đây, thì giun non được có giai đoạn ấu trùng L5. Bởi vì giai đoạn này không trải qua một sự biến thái nào, nên chúng không được xem là một giai đoạn của ấu trùng. Ở đây chúng chưa trưởng thành và cần tới vài tháng sau đó để trở thành giun trưởng thành. Sau khi đi vào tĩnh mạch ngoại vi, dòng máu mang những con giun non này đi qua tim và vào động mạch phổi. Sau 120 ngày tất cả giun non đều tập trung ở hệ mạch máu phổi. Cuối cùng chúng thành giun trưởng thành và việc giao phối diễn ra ở mạch máu phổi. Ấu trùng được sinh sản ra, thông thường khoảng 180-210 ngày (nhưng có thể 270 ngày), hoàn thành vòng đời. Giun đực trưởng thành dài khoảng 15-18cm và giun cái dài từ 25-30cm và có thể sống được từ 5 đến 7 năm.
Cách sinh bệnh
Việc nhiễm giun tim ở phổi căn bản sẽ làm tổn thương động mạch phổi và phổi. Khi giun non vào hạch mạch máu phổi 3 tháng chúng khởi phát sự gia tăng bạch cầu ái toan và viêm phổi. Giun trưởng thành là nguyên nhân gây tổn thương màng trong mạch máu phổi, tăng sinh tế bào lông nhung và sự xâm nhập của bạch cầu trung tính ở thành mạch. Sinh vật cộng sinh Rickettsia sản sinh
ra interleukin (IL-8) và đã được ứng dụng trong tiến trình của bệnh. Vai trò cụ thể của IL-8 trong tiến trình bệnh thì chưa được rõ ràng.
Mức độ nghiệm trọng của bệnh chịu ảnh hưởng của số lượng giun tim và thời gian chúng kí sinh, và một điều quan trọng tương tự, nếu không muốn nói là quan trọng hơn chính là mức độ vận động của chó. Trong khi giun tim sống có thể gây viêm động mạch và triển dưỡng lớp cơ thành tiểu động mạch, chủ yếu là ở phần đuôi của động mạch phổi, triệu chứng bệnh có thể thay đổi căn bản do ảnh hưởng của việc giun tim bị chết. Giun tim chết có thể do như nguyên nhân tự nhiên hoặc là kết quả của việc dùng thuốc adulticidal, chúng bị phân hủy. Những mảnh xác giun tim cư trú trong động mạch phổi, và mao mạch trong phần sau của động mạch phổi, chúng ngăn chặn dòng chảy máu. Những mảnh xác giun cùng với các chất gây viêm chúng gây ra chứng ngưng kết tiểu cầu, dẫn đến huyết khối gây tắc phổi. Trong suốt giai đoạn tăng hoạt động hoặc tập thể dục, lượng máu đến các mao mạch bị tắc tăng mạnh là nguyên nhân của việc các mao quản mỏng manh bị vỡ kết quả là xuất huyết phổi và chứng xơ hóa. Chứng xơ hóa này, cùng với việc phóng thích chất hoạt mạch của giun tim, dẫn đến việc tăng sức kháng mạch máu phổi và sau đó là chứng tăng huyết áp. Di chứng để lại là việc tâm thất trái bị phù và tâm thất phải có khả năng bị suy.
Những bệnh tích bất thường khác, như việc giun tim đi lạc vào trong mắt, thần kinh trung ương, xoang bụng và hệ thống tuần hoàn. “Hội chứng Caval” xảy ra ở một số ít trường hợp, các kết quả từ việc giun tim định vị ở tĩnh mạch chủ sau và bên phải van ba lá gây rối loạn các chức năng. Chứng huyết khối xâm lấn kết quả của hiện tượng tiêu huyết do hồng cầu bị tổn thương hàng loạt, góp phần vào sự phát triển của bệnh lý suy tim.
Ở mèo, giai đoạn đầu tiên bắt đầu ngay sau khi sự xuất hiện của giun non trong các động mạch phổi ở phần sau 75 ngày. Có một phản ứng viêm cấp tính đến mạch máu và nhu mô sau đó hầu hết giun trưởng thành chết sau khoảng 90 ngày.
Triệu chứng lâm sàng
Nhiều con chó bị nhiễm giun tim nhưng không có dấu hiệu lâm sàng, bởi vì con chó có thể chịu đựng và chung sống với giun tim rất tốt, đặc biệt với những chú chó ít hoạt động. Các yếu tố ảnh hưởng đến biểu hiện lâm sàng ban đầu là do mối quan hệ giữa số lượng giun tim hiện diện với kích thước của con chó, thời gian nhiễm bệnh, đáp ứng của cá nhân vật chủ đối với kí sinh trùng, và quan trong nhất là mức độ vận động của con chó. Triệu chứng lâm sàng thường phát triển dần dần, với ho nhẹ được là dấu hiệu phổ biến nhất. Dấu hiệu lâm sàng liên quan đến việc gia tăng mức độ bệnh cũng có thể phát triển thành dạng cấp tính kết quả của cái chết tự nhiên và sự tan rã của của giun dẫn đến phổi bị tắc nghẽn. Khi bệnh diễn biến, bệnh lý phổi nặng hơn, những dấu hiệu liên quan đến chức năng tim bên phải liên quan đến sự bất thường khi nghe âm tim và xuất hiện hiện tượng ứ nước.
Chẩn đoán
Chụp X-quang: là phương pháp hiệu quả để đánh giá tình trạng tim phổi, và trước khi có xét nghiệm huyết thanh, đó là phương pháp được sử dụng để chẩn đoán bệnh giun tim. Hình ảnh rọi xuất hiện đảo ngược “D” và phần đuôi động mạch phổi rộng hơn, quanh co, và thường ngắn hơn.
Chẩn đoán lâm sàng nâng cao
Kết quả xét nghiệm những triệu chứng lâm sàng bất thường diễn ra những không phải chỉ để chẩn đoán duy nhất bệnh giun tim. Bất đồ về huyết đồ bao gồm bạch cầu ái toan, bạch cầu ái kiềm, bạch cầu trung tính, chứng thiếu máu không thể phục hồi, và giảm tiểu cầu. Đánh giá hoạt động enzyme của gan, chứng tăng urê huyết, và chứng tăng bilirubin máu có thể được ghi nhận sau kết quả xét nghiệm huyết thanh và protein niệu có thể được phát hiện khi phân tích nước tiểu.
Phát hiện ấu trùng giun tim: Ấu trùng có thể được nhận dạng khi sói dưới kính hiển vi giọt máu tươi chống đông.
Xét nghiệm huyết thanh học: thực hiện bằng cách sử dụng một trong những bộ dụng cụ xét nghiệm kháng nguyên thương mại có sẵn
Phương pháp phát hiện di truyền phân tử để sử dụng trong chẩn đoán nhiễm trùng giun tim và phương pháp này đang xem là quan trọng trong việc xác định độ nhạy đối với các tác nhân nhiễm khuẩn do vi sinh vật. Phản ứng PCR đã được phát triển và có thể phát hiện và phân biệt D. immitis từ D. repens.
Phòng ngừa
- Sử dụng macrocyclic lactone
- Doxycyclin và melarsomine
- Diethylcarbamazine citrate
- Ivermectin
- Moxidectin
- Ngoài việc sử dụng các chế phẩm có thành phần như trên để bảo vệ chó hoạc mèo khỏi giun tim thì việc vệ sinh môi trường giảm bớt ký sinh trùng và các tác nhân như ruồi muỗi cũng là điều hết sức quan trọng trong việc phòng ngừa bệnh.